Home Cộng Đồng Cô gái lai Việt – Mỹ bất ngờ nhận ra thân phận thật vào ngày mất mẹ
Cộng Đồng

Cô gái lai Việt – Mỹ bất ngờ nhận ra thân phận thật vào ngày mất mẹ

Ngày mẹ nhập viện vì tai biến, bác sĩ báo bà chưa từng sinh nở, chị Hằng ngất xỉu vì đau buồn, không biết mình là con ai nữa.

Đang hạnh phúc với chồng và 3 con trong căn nhà ấm áp ở thành phố Chicago (Mỹ), nhưng chị Nguyễn Thị Xuân Hằng (47 tuổi) lúc nào cũng thấy lòng tồn tại một khoảng trống. Khoảng trống ấy xuất hiện 20 năm trước, khi chị biết mình không phải là con đẻ của người mẹ đã ở bên từ thời thơ ấu. Từ đó đến nay, Hằng đã trở về Việt Nam 4 lần để tìm cội nguồn của mình, chỉ mong được  một lần nhìn, ôm hôn và chăm sóc mẹ đẻ.

“Trái đất tròn, biết đâu điều kỳ diệu sẽ đến, tôi và mẹ sẽ tìm thấy nhau”, chị Hằng, hiện sống bằng nghề làm nail, tha thiết nói.

Tháng 2 năm nay, điều kỳ diệu đầu tiên đã đến trong đời chị. Bằng việc tìm kiếm qua dữ liệu ADN suốt 3 năm, Hằng đã tìm được cha đẻ của mình.

Chị Hằng hạnh phúc bên cha ruột trong lần gặp đầu tiên tháng 2/2019. 

Chị Hằng hạnh phúc bên cha ruột trong lần gặp đầu tiên tháng 2/2019.

Cha đẻ chưa từng xuất hiện trong ký ức tuổi thơ của Hằng. Nhưng chị biết, dòng máu của người đàn ông ấy tạo nên sự khác biệt của mình với những bạn bè đồng lứa. Từ nhỏ, cô bé đã chấp nhận biệt danh Hằng “lai” và phải chịu những ánh nhìn giễu cợt bởi mái tóc màu rêu, đôi mắt nâu và thân hình cao lớn vượt trội.

Bà Nguyễn Thị Xuân, người mẹ chăm cô từ thuở lọt lòng, chỉ kể rằng ba cô là một lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Bà bảo, vì không muốn sang Mỹ sống cùng chồng nên bà ở vậy, một mình nuôi con. Sự săn sóc, yêu thương của mẹ Xuân khiến Hằng luôn nghĩ mình là con đẻ của bà.

Năm 16 tuổi, cô gái trẻ cùng mẹ sang Mỹ định cư theo diện con lai, đổi tên thành Jenny Hằng Nguyễn. Cuộc sống của hai mẹ con trôi qua bình yên, đến độ Hằng chưa từng có ý nghĩ phải tìm cha.

Thế nhưng, năm 1999, bà Xuân bất tỉnh, phải nhập viện vì tai biến mạch máu não. Kiểm tra, bác sĩ phát hiện cơ thể bà không hề có dấu hiệu của việc sinh nở. Nhận được thông báo của bệnh viện, Hằng ngất xỉu tại chỗ.

“Lúc tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường bệnh, tôi tự rút kim truyền nước, chân trần chạy đến phòng mẹ Xuân gào khóc ‘Mẹ ơi, mẹ dậy nói cho con biết con là ai, cha mẹ con ở đâu đi’. Nhưng bà không bao giờ tỉnh lại”, Hằng nghẹn giọng kể.

Chỉ ít ngày sau đó, bà Xuân qua đời, được về Việt Nam an táng. Hằng định bụng qua 3 năm chịu tang mẹ mới hỏi ông ngoại và các dì về gốc gác của mình. Nhưng chưa hết tang mẹ thì ông ngoại mất, rồi đến bác qua đời.

“Mỗi lần về nước chịu tang, tôi định hỏi nhưng nghĩ đến món nợ ân tình, mẹ và nhà ngoại chịu tai tiếng nuôi con lai một đời nên lại thôi. Tôi kiên nhẫn chờ xem có ai mở lời nói sự thật hay không, nhưng mọi người đều im lặng”, Hằng kể.

Năm 2015, Hằng về Việt Nam, đến đài truyền hình nhờ tìm mẹ. Người ta hỏi mẹ tên gì, ở đâu, có thông tin gì thêm không, nhưng chị “chỉ biết lắc đầu, khóc như mưa”. Sau ngày hôm ấy, Hằng ngồi ăn cơm cùng dì. Cô đã xin bà kể cho nghe sự thật.

Người dì tiết lộ, mẹ đẻ chị tên Hạnh, người miền Tây. Vào khoảng những năm 1970, bà Hạnh làm thêm trong một quán bar ngụ tại đường Nguyễn Văn Thoại (nay là đường Lý Thường Kiệt, quận Tân Bình, TPHCM), do bà Xuân làm chủ. Sinh con xong, bà Hạnh gửi con cho bà Xuân nuôi. Về sau, có lần bà Hạnh đến xin lại, nhưng không được đồng ý, vì bà Xuân đã làm lễ rửa tội cho con, hứa sẽ chăm lo cả tinh thần lẫn thể xác đứa trẻ. Nếu còn sống, năm nay bà Hạnh khoảng 67, 68 tuổi.

Chị Hằng ngày nhỏ và người mẹ nuôi tên Xuân. 

Chị Hằng ngày nhỏ và người mẹ nuôi tên Xuân.

Lần tìm tung tích mẹ ở Việt Nam, chị Hằng đồng thời tìm kiếm thông tin về cha đẻ qua dữ liệu ADN. Trong thâm tâm, chị nghĩ tìm được ba là tìm thấy mẹ. Sau 3 năm nỗ lực kết nối, đầu năm 2019, Hằng nhận được thư báo kết quả. Miệng cầu nguyện, tay bóc thư, điều đầu tiên chị quan tâm không phải địa chỉ hay tên họ, mà là cha đẻ còn sống hay đã chết. Thấy ông còn sống, chị bật khóc.

Một ngày cuối tháng 2 vừa qua, chị thấy có cuộc gọi nhỡ và tin nhắn từ một số máy lạ. “Chào Jenny, tôi là Frederick Ashley. Tôi nhận được thông tin rất có khả năng chúng ta là cha con. Tôi rất vui vì điều đó. Cô hãy gọi điện hoặc gửi email cho tôi ngay khi có thể nhé”, tin nhắn viết.

Đọc xong, “tim như nhảy khỏi lồng ngực”, Hằng mang giấy bút ra, soạn sẵn những điều mình sẽ nói, những câu nào nên hỏi trước, hỏi sau, rồi bấm điện thoại. Chị sợ những xúc cảm chen lấn sẽ khiến cuộc trò chuyện đầu tiên không suôn sẻ.

“Khi cầm máy, vừa chào hỏi nhau xong, ba đã khóc. Ông liên tục nói xin lỗi. Ông bảo không biết mình có con gái ở Việt Nam nên để tôi phải khổ sở kiếm tìm. Ở đầu dây bên kia, tôi nghe tiếng vợ ông khuyên chồng bình tâm. Bà nói họ không có con nên rất vui khi biết sự có mặt của tôi trong đời”, Hằng kể.

Ông Frederick Ashley năm 1970 tại Sài Gòn.

Ông Frederick Ashley năm 1970 tại Sài Gòn.

Hạnh phúc khi tìm thấy ba, nhưng chị thấy “có cái gì rơi vỡ trong lòng” khi biết ông không có bất kỳ kết nối nào với mẹ đẻ mình.

Ít ngày sau đó, chị cùng chồng xin nghỉ làm một tuần, lái xe 12 tiếng đến nhà cha đẻ ở thành phố Burlington, tiểu bang Bắc Carolina, mang theo những món quà cho ông và vợ, cùng các cô ruột.

Ngày hôm đó, trời mưa lớn, vừa nhìn thấy chiếc xe của con gái tiến vào cổng, Frederick đầu trần chạy ra. Người đàn ông tóc đã chuyển màu ôm chầm lấy con. “Nhìn thấy ba ướt đẫm dưới mưa, tình yêu thương tràn ngập trong lòng tôi. Hai chúng tôi cứ thế ôm nhau khóc. Sau 47 năm, cuối cùng tôi cũng được ôm cha mình bằng da bằng thịt”, Hằng kể lại.

Gặp Hằng, những đường nét trên khuôn mặt con gái giúp ông lật lại ký ức hơn 40 năm về trước. Năm 1970, khi còn là sỹ quan tại sân bay Tân Sơn Nhất, ông quen với một cô gái Việt ở quán bar. Lúc đó, Frederick Ashley giới thiệu mình tên Buddy. Ông nhớ, hồi đó mẹ Hằng còn đi học, chỉ làm việc ở quán bar như một sinh viên đi làm thêm. Thỉnh thoảng, ông vẫn dạy mẹ Hằng học tiếng Anh. Năm 1971, Frederick về nước, không biết rằng bạn gái đã mang thai.

Cựu binh Mỹ 69 tuổi tâm sự luôn cảm thấy ân hận khi không thể nhớ tên mẹ Hằng. Ông muốn cùng con trở lại Việt Nam tìm mẹ, chắp nối những ký ức và thắp nến tạ ơn người phụ nữ đã nuôi dưỡng con mình.

Từ ngày gặp Hằng, ông Frederick thường lên mạng học tiếng Việt. Mỗi lần trò chuyện hay gặp nhau, ông cố gắng chen vào đôi câu tiếng Việt. Ông bảo với con gái rất thích ăn phở, “mà phở phải có nước mắm mới good”.

“Ba nói với tôi đừng bao giờ từ bỏ ý định tìm mẹ. Ba hứa sẽ đồng hành cùng tôi. Biết đâu, trên dải đất hình chữ S, mẹ vẫn đang tìm kiếm chúng tôi trong vô vọng. Và biết đâu, may mắn lại đến với gia đình tôi thêm một lần nữa”, Jenny Hằng Nguyễn hi vọng.

Theo Vnexpress

Leave a comment

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *